Chỉ số lương McWages cũng được tính theo giá bánh mì kẹp thịt

2025-09-16 10:51:00

Danh mục: Tài chính quốc tế

Chỉ số lương McWages cũng được tính theo giá bánh mì kẹp thịt

Nay tờ báo này giới thiệu một chỉ số mới, cũng dựa vào giá Big Mac, nhưng để đo lường mức lương của các nước, dựa trên sức mua tương đương chứ không phải lương danh nghĩa.


Nguồn: OECD; McDonald’s; The Economist

Nếu chỉ số Big Mac so sánh giá chiếc bánh mì kẹp thịt ở từng nước thì chỉ số McWages tính toán xem một công nhân phải làm trong bao lâu mới có đủ tiền mua một chiếc bánh mì đó. Nói chung, tờ Economist lấy giá chiếc Big Mac bán ở một nước rồi chia cho mức lương theo giờ bình quân, sau đó so sánh kết quả. Chẳng hạn, giá Big Mac là 5 đô la/chiếc và lương bình quân của công nhân là 15 đô la/giờ, vậy người ta sẽ mất 20 phút làm việc để mua được một Big Mac. So sánh với một nước khác nơi người làm công phải mất 2 giờ mới đủ tiền mua Big Mac, có thể kết luận sức mua của công nhân nước này thấp hơn.

Trong số các nước OECD tờ Economist khảo sát, lương công nhân Mỹ mua được nhiều Big Mac nhất. Mức lương điển hình ở nước này có thể mua được 13.601 Big Mac mỗi năm, nhiều hơn nước đứng thứ nhì là Thụy Sỹ đến 1.775 chiếc. Nhưng tính ra công nhân Mỹ làm nhiều giờ trong năm hơn các nước châu Âu. Tính theo giờ, Đan Mạch xếp hạng nhất trong chỉ số McWages, lương mỗi giờ mua được 8,5 chiếc Big Mac so với 7,7 chiếc mà dân Thụy Sỹ mua được sau mỗi giờ làm việc và 7,6 chiếc của dân Mỹ. Tờ Economist nhận định cách tính toán chỉ số lương kiểu “nửa đùa, nửa thật” này hóa ra cũng khớp với các xếp hạng truyền thống khác như bảng xếp hạng các nước giàu nhất, cũng của tờ báo này thực hiện, dựa trên đo lường GDP và sức mua tương đương.

Ở một số nước, giá chiếc bánh mì Big Mac tăng nhanh hơn tiền lương, làm nước đó tụt hạng trên chỉ số McWages. Ví dụ ở Đức, giá Big Mac tăng 13% so với thời điểm xếp hạng vào năm ngoái, lên 6,05 euro trong khi mức lương chỉ tăng 4%. Vì thế xếp hạng năm nay của Đức tụt 5 bậc. Anh và Ireland cũng chịu cảnh giá bánh mì tăng nhanh hơn lương nên lần lượt tụt 3 và 4 bậc.

Tờ Economist nói chỉ số McWages, cũng y như chỉ số Big Mac, là nhằm tính sơ để hình dung hơn thua mức lương giữa các nước chứ không hẳn đã chính xác. Chẳng hạn, chỉ số này không tính đến thuế trên thu nhập và trên tiêu dùng trong khi các nước OECD có mức thuế rất khác nhau. Trong khi tính toán giá Big Mac có thể giống nhau giữa các nước, nhưng cách thức trả lương rất khác nhau tùy theo từng nước - khác cả ở mức chi trả bảo hiểm y tế hay đóng góp lương hưu. Hơn nữa, giá Big Mac tăng giảm chỉ phản ánh một phần mức lạm phát toàn nền kinh tế của nước được khảo sát.

Tính mức lương bình quân cũng sẽ bỏ sót sự chênh lệch trong mức lương ngay trong cùng một nước, như sự khác biệt giữa lương cho nam và lương cho nữ vẫn rất rõ nét ở các nước OECD. Vì thế năm nay tờ Economist tính riêng lương bình quân nam và nữ để có một chỉ số McWages cụ thể theo giới tính. Họ còn điều chỉnh lương bình quân này theo số giờ làm việc vì con số này cũng khác giữa hai giới.

Nhìn chung, tờ Economist nhận thấy ở các nước giàu, cứ mỗi giờ, nam giới hưởng lương cao hơn nữ chừng nửa chiếc bánh mì kẹp thịt. Mức chênh lệch tuyệt đối này cao nhất ở Mỹ, lên đến 1,31 Big Mac, còn chênh lệch tính theo tỷ lệ thì cao nhất ở Hàn Quốc, nơi nam giới hưởng lương theo số chiếc bánh mì cao hơn nữ đến 25%. Đan Mạch, nước xếp hạng đầu trong chỉ số McWages, cũng có mức chênh lệch thu nhập nam nữ ít hơn mức bình quân nhưng tính ra nam vẫn hơn nữ chừng 0,26 chiếc bánh mì. Chỉ có Bỉ, nơi có mức chênh lệch thu nhập theo giới tính nhỏ nhất Liên minh châu Âu (EU), mới đảo ngược cán cân: phụ nữ nước này kiếm được 0,27 chiếc Big Mac, nhiều hơn nam giới sau mỗi giờ làm việc.

Nguyễn Vũ